5/5 Nguyễn Hoàn Phú T. 3 years ago on Google
(Translated
by
Google)
Tran
Quoc
Pagoda
is
located
on
a
single
island
of
the
largest
freshwater
lake
in
Hanoi.
During
the
Hai
Ba
Trung
period
(40
-
43),
the
area
around
West
Lake
was
very
sparsely
populated,
with
small
and
medium
caves
and
forests
covered,
there
were
also
a
number
of
rare
and
precious
animals
in
the
forest.
Through
thousands
of
years
of
existence
of
the
temple,
the
landscape
here
is
now
completely
different.
The
lake
bank
is
surrounded
by
large
roads,
villas
and
modern
buildings
are
formed
...
On
the
one
hand,
it
shows
the
complete
architectural
perfection
of
the
city,
but
on
the
other
hand,
accidentally
breaks
the
historic
landscape
and
spirituality
in
the
living
conception
of
the
indigenous
population.
Above
the
door
of
the
pagoda
is
inscribed
with
three
words
Phương
Phương
Môn
and
the
opposite
sentence
written
in
Nôm
on
both
sides:
Ring
the
horse's
ears
across
the
customary
street
/
Open
the
river
face
to
stand
at
the
door
of
meditation
Like
most
other
temples
in
Vietnam,
the
structure
and
interior
of
Tran
Quoc
Pagoda
have
an
orderly
arrangement
and
follow
strict
Buddhist
principles.
Consists
of
many
layers
of
houses
with
three
main
houses:
Tien
Duong,
incense
burning
house
and
upper
house
connected
to
the
shape
of
the
Cong
(工)
shape.
The
front
line
was
headed
west.
The
two
sides
of
the
incense
burning
house
and
the
upper
house
are
two
rows
of
corridors.
After
the
upper
hall
is
the
bell
tower.
The
temple
bell
guard
is
a
three-room
house,
with
the
roof
of
the
match,
located
on
the
main
hall
axis.
On
the
right
is
the
ancestor's
house
and
on
the
left
is
the
beer
house.
In
the
temple
currently
holds
14
steles.
On
the
1815
inscription,
there
is
an
essay
by
Dr.
Pham
Quy
Thich
recording
the
reconstruction
of
the
pagoda
after
a
long
period
of
ruin.
This
work
began
in
1813
and
ended
in
1815.
Behind
the
pagoda,
there
are
some
ancient
tombs
from
the
Vinh
Huu
and
Canh
Hung
dynasties
(18th
century).
The
temple
campus
has
a
lotus
pagoda
built
in
1998.
The
large
stupa
consists
of
11
floors,
15m
high.
Each
floor
of
the
tower
has
6
arched
doorways,
in
each
cell
is
a
gem
statue
of
Buddha
Amitabha.
The
top
of
the
tower
has
a
nine-story
lotus
(called
the
Nine-story
Lotus)
is
also
made
of
precious
stones.
This
stupa
is
built
in
symmetry
with
the
large
bodhi
tree
donated
by
the
President
of
India
when
he
visited
Hanoi
in
1959.
Venerable
Thich
Thanh
Nha,
Member
of
the
Board
of
Directors
of
the
Vietnamese
Buddhist
Church,
Abbot
of
Tran
Pagoda
Quoc,
has
explained
the
symmetry
as:
"The
lotus
represents
the
Buddha's
true
nature,
such
as
being
born
in
the
mud
without
being
defiled.
Bodhi
is
wisdom,
unsurpassable
wisdom.
All
of
them
have
meaning.
the
essence
and
the
phenomenon
of
dhammas
".
The
continental
lotus
stupa,
Tran
Quoc
pagoda
The
pagoda
was
recognized
as
a
national
level
cultural
and
historical
relic
in
1989.
However,
due
to
many
restoration
and
repair
times,
the
architecture
of
the
pagoda
cannot
avoid
being
mixed
with
the
architectural
styles
of
the
periods:
In
the
years
1624,
1628
and
1639
(the
Trinh
Lord's
time),
the
pagoda
was
restored
and
expanded.
During
the
Tay
Son
period,
in
the
context
of
a
power
dispute
at
the
end
of
the
Hau
Le
dynasty
in
Vietnamese
history,
the
pagoda
fell
into
disrepair,
at
that
time
local
residents
asked
for
a
repair.
The
biggest
restoration
time
was
in
the
year
of
Hoi,
the
year
Gia
Long
14
(on
the
epitaph
of
Reconstructing
Tran
Quoc
Tu
bi,
written
by
Doctor
of
Science
in
1779
Pham
Lap
Trai)
[1].
In
2010,
the
renovation
was
made
to
celebrate
the
1000
year
anniversary
of
Thang
Long
-
Hanoi
and
the
6th
World
Buddhist
Summit
held
in
Vietnam
in
November
2010.
The
cost
estimate
of
this
restoration
is
15
billion
VND
[2].
In
the
epitaph
"Reconstructing
Tran
Quoc
self-biased"
written
by
the
Doctor
of
Ky
Hoi
in
the
40th
year
of
Canh
Hung,
praised:
"Standing
high
above
to
see
the
pagoda,
the
clouds
in
the
water
bottom,
the
blue
light
of
the
lake
makes
tourists
dazzle.
light.
(Original)
Chùa
Trấn
Quốc
toạ
lạc
trên
một
hòn
đảo
duy
nhất
của
một
hồ
nước
ngọt
lớn
nhất
ở
Hà
Nội.
Vào
thời
Hai
Bà
Trưng
(40
-
43),
khu
vực
xung
quanh
Hồ
Tây
dân
cư
rất
thưa
thớt,
có
các
hang
động
vừa
và
nhỏ
và
rừng
cây
bao
phủ,
trong
rừng
còn
có
cả
một
số
loài
thú
quý
hiếm
sinh
tồn.
Cùng
trải
qua
thời
gian
hàng
nghìn
năm
tồn
tại
của
ngôi
chùa,
cảnh
quan
nơi
đây
bây
giờ
được
đổi
khác
hoàn
toàn.
Bờ
hồ
có
đường
lớn
bao
quanh,
những
ngôi
nhà
biệt
thự
và
công
trình
hiện
đại
hình
thành...
Một
mặt
thể
hiện
sự
hoàn
thiện
tổng
thể
kiến
trúc
của
thành
phố,
nhưng
mặt
khác
vô
tình
phá
vỡ
cảnh
quan
lịch
sử
và
tâm
linh
trong
quan
niệm
sống
của
số
dân
cư
bản
địa.
Phía
trên
cửa
chùa
có
ghi
ba
chữ
Phương
Tiện
môn
và
câu
đối
hai
bên
viết
bằng
chữ
Nôm:
Vang
tai
xe
ngựa
qua
đường
tục/
Mở
mặt
non
sông
đứng
cửa
thiền
Giống
hầu
hết
những
ngôi
chùa
khác
ở
Việt
Nam,
kết
cấu
và
nội
thất
chùa
Trấn
Quốc
có
sự
sắp
xếp
trình
tự
và
theo
nguyên
tắc
khắt
khe
của
Phật
giáo.
Gồm
nhiều
lớp
nhà
với
ba
ngôi
chính
là
Tiền
đường,
nhà
thiêu
hương
và
thượng
điện
nối
thành
hình
chữ
Công
(工).
Tiền
đường
hướng
về
phía
Tây.
Hai
bên
nhà
thiêu
hương
và
thượng
điện
là
hai
dãy
hành
lang.
Sau
thượng
điện
là
gác
chuông.
Gác
chuông
chùa
là
một
ngôi
ba
gian,
mái
chồng
diêm,
nằm
trên
trục
sảnh
đường
chính.
Bên
phải
là
nhà
tổ
và
bên
trái
là
nhà
bia.
Trong
chùa
hiện
nay
đang
lưu
giữ
14
tấm
bia.
Trên
bia
khắc
năm
1815
có
bài
văn
của
tiến
sĩ
Phạm
Quý
Thích
ghi
lại
việc
tu
sửa
lại
chùa
sau
một
thời
gian
dài
đổ
nát.
Công
việc
này
bắt
đầu
vào
năm
1813
và
kết
thúc
vào
năm
1815.
Phía
sau
chùa
có
một
số
mộ
tháp
cổ
từ
đời
Vĩnh
Hựu
và
Cảnh
Hưng
(thế
kỉ
18).
Khuôn
viên
chùa
có
Bảo
tháp
lục
độ
đài
sen
được
xây
dựng
năm
1998.
Bảo
tháp
lớn
gồm
11
tầng,
cao
15m.
Mỗi
tầng
tháp
có
6
ô
cửa
hình
vòm,
trong
mỗi
ô
đặt
một
pho
tượng
Phật
A
Di
Đà
bằng
đá
quý.
Đỉnh
tháp
có
đài
sen
chín
tầng
(được
gọi
là
Cửu
phẩm
liên
hoa)
cũng
bằng
đá
quý.
Bảo
tháp
này
được
dựng
đối
xứng
với
cây
bồ
đề
lớn
do
Tổng
thống
Ấn
Độ
tặng
khi
ông
đến
thăm
Hà
Nội
năm
1959.
Thượng
toạ
Thích
Thanh
Nhã,
Uỷ
viên
Hội
đồng
trị
sự
Giáo
hội
Phật
giáo
Việt
Nam,
Trụ
trì
chùa
Trấn
Quốc,
đã
giải
thích
sự
đối
xứng
đó
là:
"Hoa
sen
tượng
trưng
cho
Phật
tính
chân,
như
tính
sinh
ở
dưới
bùn
mà
không
bị
ô
uế.
Bồ
đề
là
trí
giác,
trí
tuệ
vô
thượng.
Tất
cả
đều
hàm
ý
nghĩa
bản
thể
và
hiện
tượng
của
các
pháp".
Bảo
tháp
lục
độ
đài
sen,
chùa
Trấn
Quốc
Chùa
được
công
nhận
là
Di
tích
Lịch
sử
Văn
hoá
cấp
quốc
gia
vào
năm
1989.
Tuy
nhiên,
do
nhiều
lần
trùng
tu,
sửa
chữa
nên
kiến
trúc
chùa
đã
không
khỏi
bị
pha
tạp
phong
cách
kiến
trúc
của
các
thời
kỳ:
Trong
các
năm
1624,
1628
và
1639
(thời
Chúa
Trịnh),
chùa
được
trùng
tu,
mở
rộng.
Trải
qua
thời
Tây
Sơn,
trong
bối
cảnh
tranh
chấp
quyền
lực
cuối
thời
Hậu
Lê
trong
lịch
sử
Việt
Nam
ngôi
chùa
bị
rơi
vào
cảnh
hoang
phế,
khi
đó
cư
dân
địa
phương
đã
xin
được
tu
sửa
lại
chùa.
Lần
trùng
tu
lớn
nhất
là
vào
năm
Ất
Hợi,
niên
hiệu
Gia
Long
14
(trên
văn
bia
Tái
tạo
Trấn
Quốc
tự
bi
do
Tiến
sĩ
khoa
1779
Phạm
Lập
Trai
soạn
văn)
[1].
Năm
2010,
tu
bổ
để
chào
mừng
Đại
lễ
1000
năm
Thăng
Long
–
Hà
Nội
và
Hội
nghị
Thượng
đỉnh
Phật
giáo
Thế
giới
lần
thứ
6
tổ
chức
tại
Việt
Nam
vào
tháng
11/2010.
Dự
toán
kinh
phí
của
đợt
tu
bổ
này
là
15
tỷ
đồng
[2].
Trong
văn
bia
"Tái
tạo
Trấn
Quốc
tự
bi"
do
Tiến
sĩ
khoa
Kỷ
Hợi
năm
Cảnh
Hưng
thứ
40
soạn,
đã
ca
ngợi:
"Đứng
trên
cao
ngắm
cảnh
chùa,
mây
lồng
đáy
nước,
mặt
hồ
ánh
xanh
xanh
khiến
du
khách
lâng
lâng.
Tiếng
chuông
chùa
gọi
ai
tỉnh
mộng
trần
tục..."
2 people found this review helpful 👍